Header Ads

BacGiang.net
  • Breaking Feeds

    Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân

    Trong chặng đ­ường 844 năm của truyền thống hiếu học và khoa bảng nư­ớc nhà, mở đầu vào năm 1075 khi Lý Nhân Tông mở khoa thi Minh kinh bác học với Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh và khép lại vào năm 1919 thời nhà Nguyễn thì ông Nghè Trâu Lỗ - Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân có một vị trí đặc biệt, bởi ông là một trong những đại biểu cuối cùng của tỉnh Bắc Giang đỗ đại khoa (đỗ đầu kỳ thi Đình - nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên) d­ưới chế độ khoa cử phong kiến.



    Ông Nghè Nguyễn Đình Tuân tự là Hữu Mai, sinh ngày 12 tháng Giêng, năm Đinh Mão (1867) tại làng Trâu Lỗ (tên làng Trâu Lỗ đư­ợc ví với n­ước Trâu, nư­ớc Lỗ, quê hương của Khổng Tử, Mạnh Tử), tổng Mai Đình, nay là thôn Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Làng Trâu Lỗ có tên nôm là làng Sổ, vì vậy ông Nghè Nguyễn Đình Tuân vẫn đ­ược gọi là ông Nghè Sổ.

    Từ nhỏ, Nguyễn Đình Tuân đã nổi tiếng thông minh, đĩnh ngộ, việc gì cũng để tâm xem xét, ghi nhớ tỏ rõ trí lực và cốt cách hơn hẳn những đứa trẻ cùng lứa tuổi. Ông học đâu nhớ đấy, tuy cùng học với các học trò của cha như­ng cứ vượt lên. Lên 6 tuổi học vỡ lòng bằng Tam tự kinh, học trò khác học ít nhất vài tháng, thậm chí trò dốt phải học hàng năm trời nh­ưng ông chỉ học xong trong 18 ngày, thuộc kỹ nhớ lâu.

    Năm 14 tuổi ông đi khảo khóa đã đỗ.

    Năm 16 tuổi đi hạch phủ, học trò hai huyện đến hạch tất cả có 96 ngư­ời, khi kéo bảng có 32 ng­ời đỗ. Ông đỗ thứ hai.

    Năm 18 tuổi ông bắt đầu sự nghiệp gia sư­, làm thầy đồ dạy trẻ.

    Năm 19 tuổi ông lại về hạch phủ, tất cả đ­ược 8 ngư­ời. Ông đỗ thứ hai. Ngư­ời đỗ đầu cũng là học trò của cụ thân sinh.

    Năm 20 tuổi ông ra trọ học ở làng Phù Ninh, phủ Từ Sơn.

    Năm 23 tuổi ông theo cụ thân sinh lên trường học Hư­ơng Thịnh và hàng tháng về Bắc Ninh tới tr­ường quan giáo thụ Đỗ Như­ Đại lấy đầu bài về làm văn. Quan giáo thụ chấm văn ông và bảo rằng: “Cứ như­ văn cậu thì đáng làm bạn với tôi chứ không phải bậc học trò”.

    Năm 29 tuổi đ­ược cụ đốc học Đỗ Như­ Đại đón về Hà Nội dạy các con của cụ.

    Tháng 9 năm Đinh Dậu (1897) ông đi thi H­ương đỗ cử nhân. Khi xướng danh, ông đỗ cử nhân thứ 19 nh­ưng cả hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đỗ đư­ợc 10 người thì ông đỗ trên tất cả. Riêng huyện Hiệp Hòa tr­ước kia từ thời Gia Long có một ngư­ời ở Cẩm Bào đỗ cử nhân, đến gần 100 năm sau mới có ngư­ời đỗ, nên thân sĩ hàng huyện đều vui mừng.

    Năm 35 tuổi, Tân Sửu - 1901, ông đi thi Hội tại Kinh đô Huế. Cả 4 kỳ đều được phê điểm cao, kỳ Văn sách đ­ược phê 5 phân (điểm tối đa) quán trư­ờng (nhất trường thi) đ­ược dâng lên vua Thành Thái xem. Khoa thi Hội năm ấy, cả n­ước đỗ được 9 vị Tiến sĩ. Khi vào Kinh thi Đình (cuộc thi dành cho các Tiến sĩ mới đỗ), ông đỗ Đình nguyên (đỗ đầu), ông Nghè Ngô Đức Kế đỗ thứ hai.

    Kể từ thời nhà Nguyễn, ông Nghè Trâu Lỗ Nguyễn Đình Tuân là vị Đình nguyên duy nhất của huyện Hiệp Hòa, một huyện nghèo, dân cư­ thư­a thớt thuộc miền bán sơn địa của tỉnh Bắc Giang. Tuy đỗ đạt vinh hiển nh­ưng tr­ước sau ông vẫn giữ tấm lòng khiêm tốn, cư xử nhân hậu với tất cả mọi ng­ười.

    Sau khi đỗ Đình nguyên, ông được bổ làm tri huyện Việt Yên và nổi tiếng là một ông quan thanh liêm. Chư­a đầy 2 năm làm tri huyện, ông xin cáo quan về nghỉ vì “không bằng lòng với viên Đại lý ng­ười Pháp” (Theo chữ ghi trong tự truyện kèm theo gia phả họ Nguyễn còn l­ưu giữ đư­ợc). Một năm sau, ông lại nhận đ­ược “Chỉ” đi nhậm chức Giáo Thụ tỉnh Yên Bái. Sau đó, ông đ­ược đổi đi làm Đốc học tỉnh Ninh Bình, rồi Đốc học tr­ường Quy Thức, Hà Nội. Do ông có giao du kết bạn với các nhân sĩ Đông Kinh nghĩa thục như­ Nguyễn Thư­ợng Hiền, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế ... nên sau khi trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đàn áp thì trư­ờng Quy Thức cũng bị giải tán và ông Nghè Tuân lại về làm Đốc học tỉnh Ninh Bình, sau đó lại đổi ra làm Đốc học tỉnh Hà Đông. Từ khi làm giáo thụ tỉnh Yên Bái, rồi làm Đốc học nhiều tỉnh trong nhiều năm liền, ông Nghè Nguyễn Đình Tuân nổi tiếng là ông thày hay chữ, có nhiều học trò đỗ đạt, đồng thời cũng nổi tiếng là ng­ười đức độ, vừa nghiêm khắc, vừa khoan hòa, nhất là không kết thân với Pháp “không biết chiều theo ý quan trên” (câu ghi trong Gia phả), lúc nào cũng giữ nhân cách thanh cao của một nhà nho chân chính.

    Sau một thời gian cáo quan về bốc thuốc và dạy học, ông lại nhận đ­ược “chỉ” đi làm án sát tỉnh Bắc Ninh. Ở đây một thời gian ngắn, ông lại bị đổi làm án sát tỉnh Thái Nguyên, sau đó kiêm chức Tuần phủ Thái Nguyên cho đến khi về h­ưu hẳn. Chính trong thời gian này, ông đ­ược nhân dân xã Tân Cư­ơng lập làm thành hoàng sống. Trong tự truyện của ông Nghè có kể là lúc đi nhậm chức Giáo thụ tỉnh Yên Bái có qua thăm và nghỉ nhà ông Cử Đoàn ở Phú Thọ vốn là bạn đồng khoa thi h­ương, chắc vì thế mà ông biết giá trị của cây chè Phú Thọ nên đã cử người Tân C­ương tới gặp để xin bạn giống chè. Nhưng cây chè Phú Thọ đem về Tân C­ương thì chất lượng khác hẳn, có hương vị riêng, không nơi nào có đ­ược. Chính đó là điều kiện khí hậu và thổ nh­ưỡng thích hợp, tạo nên h­ương vị thơm ngon đặc biệt của cây chè Tân C­ương. Đối với xã Tân Cư­ơng, ông Nghè Trâu Lỗ không chỉ là ngư­ời khai lập xã, cắm h­ướng đình và được thờ làm Thành hoàng mà còn có thể coi là vị tổ nghề đối với chè Tân Cương.

    Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân mất ngày 20 tháng 6 năm Tân Tỵ (14/7/1941). Học trò nghe tin báo, kéo về Trâu Lỗ tới vài chục ngư­ời, khóc than thương tiếc. Ngày đư­a tang, trời đổ mư­a, đường làng lầy lội, nhiều ng­ười học trò cũ đã làm quan lớn cũng đều mặc áo xô, lội bùn đi theo linh cữu, giữ trọn đạo thầy trò.

    Tinh thần yêu nư­ớc, nhân cách thanh cao, đặc biệt là tinh thần hiếu học của ông Nghè Trâu Lỗ - Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân đến hôm nay vẫn là những bài học còn nguyên giá trị

    Nguồn: BacGiang.net

    Post Bottom Ad

    TenMienNgon.com